Feeds:
Bài viết
Bình luận

Lương tâm

HumanFlowersbyCeciliaWebber_7_funnypagenet.com_

Gerbera / Hoa đồng tiền. Ảnh ghép:Cecelia Webber

 

Người đời thường rỉ rên: “Lương tâm cắn rứt!”

Ồ, lương tâm mọc răng sữa hồi nào?

Nhỡ mai kia, lương tâm bị… nha chu, ai chữa?

Tuổi xế tà, lương tâm… móm hay sao?

Bài thơ Nước lụt của Nguyễn Đình Chiểu, hay Tú Quỳ, hay Lê Trung Đình?

Đồ Chiểu / Nguyễn Đình Chiểu / 阮廷沼 tự Mạnh Trạch, hiệu Trọng Phủ, sau khi bị mù có thêm hiệu Hối Trai. Ông chào đời ngày 1-7-1822 nhằm 13 tháng 5 năm Nhâm Ngọ tại quê mẹ là làng Tân Thới, phủ Tân Bình, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định, nay thuộc phường Cầu Kho, quận 1, Sài Gòn; mất ngày 3-7-1888 nhằm 14 tháng 5 năm Mậu Tý tại làng An Đức, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tập I Nguyễn Đình Chiểu toàn tập (NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1980) ghi nhận nguyên quán của Đồ Chiểu là xã Bồ Điền, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên.

Lời nói đầu bộ sách vừa nêu do Nguyễn Thạch Giang chấp bút: “Nguyễn Đình Chiểu là ngôi sao sáng trong bầu trời văn nghệ dân tộc. Từ sau cách mạng tháng 8, và nhất là từ năm 1954, tác phẩm của ông đã được giới thiệu, phổ biến rộng rãi trong cả nước. Song những tác phẩm này chưa được khảo sát dưới góc độ văn bản học chặt chẽ, vì chúng ta chưa có đủ những bản nôm cần thiết.”

Nguyễn Đình Chiểu toàn tập tắt hóa thành toàn tập, gồm 2 tập, do Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sỹ Lâm, Nguyễn Thạch Giang biên khảo và chú giải, đã dụng công xử lý văn bản, cố gắng hiệu đính các tác phẩm hầu sát hợp bản gốc. Ở đây, chỉ nhắc qua nhan đề 2 tác phẩm của Đồ Chiểu:

  1. Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, về nhan đề, trong sách Gia lễ của Huình-Tịnh Paulus Của (Sài Gòn, 1886) ghi Văn tế vong hồn mộ nghĩa, toàn tập ghi Tế Cần Giuộc sĩ dân trận vong văn.
  2. Ngư Tiều vấn đáp y thuật do Phan Văn Hùm hiệu đính và chú thích, Nhượng Tống tăng bình bổ chú (NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1952); dựa vào bản đó, Vũ Đình Liên và Lê Thước trích chú thành Ngư Tiều y thuật vấn đáp (NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1957 – NXB Văn Học, Hà Nội, 1963); toàn tập căn cứ bản nôm do Phạm Khánh Vân chép năm Tân Hợi 1911 để hiệu đính nhan đề Ngư tiều vấn đáp nho y diễn ca.

Phanxipăng bên tượng Nguyễn Đình Chiểu trong sân trường THCS cùng tên ở xã Mỹ Lộc, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An. Ảnh: Đặng Văn Năm

Tháng 9-2016, cám cảnh mưa to ngập lớn ở TP.HCM cùng một số đô thị khác trên toàn quốc, Phanxipăng lật lại toàn tập, ư ử ngâm nga Nước lụt thi trong tập II (NXB Đại Học và Trung Học Chuyên Nghiệp, Hà Nội, 1982). Đây là bản phiên ra quốc ngữ từ bản nôm mà theo lời Nguyễn Kim Phụng (cháu nội của Đồ Chiểu) thì do các con của Đồ Chiểu là Sương Nguyệt Anh / Nguyễn Thị Khuê, Nguyễn Đình Chúc, Nguyễn Đình Chiêm chép theo giọng đọc của phụ thân. Bài thơ in trang 15:

Trời mưa từng trận gió từng hồi, 
Thế giới bao nhiêu nước khỏa rồi.
Lũ kiến bất tài đòi chỗ bợ,
Đấu bèo vô dụng kết bè trôi.
Lao xao rừng cụm nghe chim chíp,
Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi.
Nỡ để dân đen trên gác yếu,
Này ông Hạ Vũ ở đâu ôi!

Khảo dị từ sách Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu (NXB Văn Học, Hà Nội, 1963):

Trời mưa từng trận gió từng hồi,
Bốn mặt giang sơn ngập cả rồi,
Lũ kiến bất tài muôn khóm giạt,
Giống bèo vô dụng một bè trôi.
Liu riu rừng quạnh nghe chim hót,
Lổm xổm giường cao thấy chó ngồi.
Nỡ để dân đen chìm đắm mãi,
Này ông Hạ Vũ ở đâu ôi!

Cần thêm rằng sách Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu được tập hợp từ đôi cuốn:

  1. Nguyễn Đình Chiểu – thân thế & thi văn do Nguyễn Bá Thế sưu soạn (NXB Tân Việt, Sài Gòn, 1957)
  2. Nguyễn Đình Chiểu do Vũ Đình Liên viết (NXB Văn Hóa, Hà Nội, 1960)

Theo Phanxipăng, nhan đề bài thơ Nước lụt thi nếu nhuận sắc thành Nước lụt ắt gọn gàng, dễ nhớ. Tuy nhiên, có vấn đề mà tổng tập không ghi chú, song đáng phân vân: tác giả đích thực của bài thơ này là ai?

Các ấn phẩm đã nêu trên đều ghi rằng bài thơ Nước lụt của Đồ Chiểu, thế nhưng một số tài liệu lại khẳng định của 1 trong 2 cây bút khác: Tú Quỳ, Lê Trung Đình.

Tú Quỳ (1828 – 1926) có họ tên Huỳnh Quỳ, hiệu Hướng Dương, quê làng Giảng Hoà, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam; đỗ tú tài năm 19 tuổi; không chịu làm quan, suốt đời lãng du, dạy học, bốc thuốc & sáng tác đủ loại thể văn chương, nhất là thơ phúng thích. Bài thơ Ni cô của Tú Quỳ:

Ôm chuông gối mõ ngáy kho kho,
Gió thổi màn thiền mát mẻ o.
Cánh cửa từ bi cài lỏng chốt,
Nồi hương tế độ đút đầy lò.
Cá kia ngỏng kệ đầu ngơ ngẩn,
Chim nọ nghe kinh cổ gật gù.
Ướm hỏi chúng sanh lòng muốn độ,
Phải quỳ, phải lạy, phải “nam vô”.

Sách Văn thơ Tú Quỳ do Trương Duy Hy sưu soạn (NXB Đà Nẵng, 1993) có bài thơ bát cú Nước lụt, thừa đề lục ngôn, các dòng còn lại thất ngôn:

Mưa từng chặp gió từng hồi,
Bốn mặt non sông nước khỏa rồi.
Lũ kiến bất tài tha trứng chạy,
Chòm rong vô dụng kết bè trôi.
Chít chiu rừng rậm chim kêu tổ,
Lổm ngổm giường cao chó nhảy ngồi.
Nỡ để dân đen rày đói lạnh,
Nào ông Hạ Võ ở đâu rồi?

Lê Trung Đình (? – 1885) hiệu Long Cang, gốc làng Bình Sơn, nay thuộc TP Quảng Ngãi. Đỗ cử nhân tại trường thi hương Bình Định khoa Giáp Thân 1884, rồi cùng các sĩ phu ở tỉnh Quảng Ngãi bí mật lập Nghĩa Hội. Ngày 5-7-1885 nhằm 23 tháng 5 năm Ất Dậu, cuộc phản công của phe chủ chiến ở Huế thất bại, kinh đô thất thủ, Tôn Thất Thuyết nhân danh vua Hàm Nghi phát động phong trào Cần Vương. Lê Trung Đình tập hợp khoảng 3 nghìn hương binh ở bãi sông Trà Khúc, tế cờ, đoạn đánh chiếm thành Quảng Ngãi, bắt giữ quan lại, thả tù phạm, thu ấn triện, binh khí, tiền, lương thực. Quân triều đình vây bắt được Lê Trung Đình, dụ hàng không thành, nên xử chém tại Quảng Ngãi vào tháng 7-1885. Trước khi rơi đầu, Lê Trung Đình bật bài ngũ ngôn tứ tuyệt Lâm hình thời tác / Làm lúc sắp bị hành hình:

Kim nhật lung trung điểu,
Minh triêu trở thượng ngư.
Thử thân hà túc tích,
Xã tắc ai kỳ khu.

Hoàng Tạo dịch:

Nay là chim trong lồng,
Mai đã cá trên thớt?
Thân này tiếc gì đâu,
Gian nan tình đất nước.

Sách Văn đàn bảo giám do Trần Trung Viên sưu soạn (NXB Nam Ký, Hà Nội, 1925 – 1930; NXB Mặc Lâm, Sài Gòn, 1968; NXB Văn Học, Hà Nội, 2004) ghi rằng bài thơ Nước lụt của Lê Trung Đình:

Mưa từng chặn nước từng hồi, 
Bốn mặt non sông nước phủ rồi.
Lũ kiến bất tài tha trứng chạy,
Đám rêu vô dụng kết bè trôi.
Lửng lơ rừng thẳm không chim đậu,
Ngất ngưởng lầu tây có chó ngồi.
Nỡ để dân đen vùi máu đỏ,
Nào ông Hạ Võ ở đâu ôi!

Sách Văn đàn bảo giám mắc nhiều sai lầm, thiếu sót, ấy là nhận xét chung; riêng bài thơ Nước lụt thì vì sao Trần Trung Viên ghi của Lê Trung Đình? Sách Văn thơ Tú Quỳ của Trương Duy Hy lại là ấn phẩm được biên soạn lâu dài, cẩn trọng, chưa rõ dựa theo nguồn nào mà khẳng định rằng bài thơ Nước lụt của Huỳnh Quỳ?

Rất mong các nhà sưu khảo văn học Việt Nam sớm giải đáp: trên cơ sở văn bản học, bài thơ Nước lụt của Đồ Chiểu, hay Tú Quỳ, hay Lê Trung Đình? ♥

Mùa thu

Victor Hugo

L’AUTOMNE

L’aube est moins claire, l’air moins chaud, le ciel moins pur;

Les longs jours sont passés, les mois charmants finissents.

Hélas! Voici déjà les arbres qui jaunissent!…

L’automne est triste avec sa bise et son brouillard

Et l’été qui s’enfuit est un ami qui part.

 

 

 

          MÙA THU

I

Bình minh kém sáng, bầu trời kém tươi

Ngày dài đã rụng, tháng đẹp qua rồi

Ôi! Lạnh không gian, úa vàng cây cối

Mùa thu trĩu buồn, sương mù rơi rơi

Và hè nhẹ trôi như người ly biệt.

 

II

Úa vàng cây, không gian sao lạnh lẽo

Tái tê trời và xám xịt bình minh

Những tháng ngày hoa nắng đẹp như tình

Đà tan biến trong vòng tay tiếc nuối

Mùa thu đến sương mờ giăng khắp lối

Gió bấc về cho lòng nổi cơn run.

 

III

Ngày vui đã vụt qua đi

Bão bùng làm lá chia ly với cành

Còn đâu nguyên mảng trời xanh

Có chăng liếp liếp mong manh sương mù

Sợi buồn giăng giăng mùa thu

Không gian ướm lạnh, mù mù thời gian.

 

                                      Phanxipăng chuyển sang Việt ngữ

 

Về Ngày Báo chí

IMG_6150s

Tranh dán giấy: Phanxipăng

1

            Nghề báo có nhiều ngày kỷ niệm. Theo Liên Hiệp Quốc, mỗi năm toàn cầu tổ chức:

  • Ngày Tự do Báo chí thế giới / World Press Freedom Day / WPFD vào 3 tháng 5
  • Ngày Phát thanh thế giới / World Radio Day / WRD vào 13 tháng 2
  • Ngày Truyền hình thế giới / World Television Day / WTD vào 21 tháng 11

Tiếc thay, thời gian qua, Việt Nam ít nhắc những ngày này. Ít nhắc, chứ khoan nói tổ chức.

 

2

            Ngày 2-5-1985, Ban Bí thư trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam ban hành quyết định số 52/QĐ/TW về việc lấy ngày 21 tháng 6 hằng năm làm Ngày Báo chí Việt Nam. Từ năm 2000, theo đề nghị của Hội Nhà báo Việt Nam, Bộ Chính trị Ban Chấp hành trung ương Đảng đồng ý gọi Ngày Báo chí Việt Nam là Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam.

Cũng từ đó, các phương tiện truyền thông của Đảng & Nhà nước ghi / gọi ngày 21 tháng 6 là Ngày Báo chí cách mạng Việt Nam. Thế nhưng, đông đảo mọi người, trong đó có lực lượng phóng viên & biên tập viên báo chí, thích dùng cụm từ Ngày Báo chí Việt Nam hoặc Ngày Nhà báo Việt Nam. Hàng loạt lời chúc mừng lẫn quảng bá về 21-6 đang lưu hành thể hiện Ngày Báo chí Việt Nam / Ngày Nhà báo Việt Nam, gọn & nhã.

21-6-1925 là nhật điểm mà báo quốc ngữ Thanh Niên do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc (sau trở thành chủ tịch Hồ Chí Minh) ra số đầu tiên tại Quảng Châu, Trung Hoa. Quá nhiều tài liệu bấy lâu nay đều ghi nhận thế, chẳng hạn sách Thư tịch báo chí Việt Nam do Tô Huy Rứa chủ biên (NXB Chính trị quốc gia, 1998), sách Lịch sử báo chí Việt Nam 1865 – 1945 do Đỗ Quang Hưng chủ biên (NXB Đại học quốc gia Hà Nội, 2000), sách Hỏi đáp báo chí Việt Nam của Lê Minh Quốc (NXB Trẻ, 2001), bài Thăm nơi ra đời tờ báo cách mạng đầu tiên của nước ta của Ngọc Vinh đăng báo Hòa Bình 28-8-2007, bài Một chặng đường quan trọng trong hành trình 30 năm của chủ tịch Hồ Chí Minh của Thái Thu Hà đăng tạp chí Tuyên Giáo 2-6-2011, bài Báo Thanh Niên với cách mạng Việt Nam của Phạm Phú Phong đăng báo Đà Nẵng 19-6-2015, bài Nhà báo Hồ Chí Minh của Trần Hoàng đăng báo Nam Định 20-6-2015, v.v.

Kỳ thực, tờ báo thực hiện kiểu viết tay trên giấy sáp / stencil, in thủ công dạng ronéo mỗi số chỉ 100 bản ấy hiện còn lắm điều mà các thư tịch chưa thống nhất. Khổ nỗi, báo Thanh Niên những số đầu tiên hiện chẳng bảo lưu, vậy đủ căn cứ để khẳng quyết số 1 ra ngày 21-6-1925 chăng?

Quan trọng hơn nữa là chúng ta đã vui mừng xác định được tờ báo quốc ngữ đầu tiên là Gia Định báo ra số 1 vào ngày 15-4-1865 tại Sài Gòn. Đó là tờ báo hình thành & phát triển nhờ sự đề xuất & điều hành của một nhà bác học Việt Nam: Trương Vĩnh Ký (1837 – 1898).

Thiết nghĩ rằng chọn 15 tháng 4 hằng năm để kỷ niệm Ngày Báo chí Việt Nam / Ngày Nhà báo Việt Nam là hợp tình, hợp nghĩa, hợp đạo, hợp lý. ♥

Món chi rất Huế? (II)

Chế biến, soạn bày, thưởng thức

Quan sát cách thức chế biến, soạn bày, cùng phong thái thưởng thức món ăn thức uống “thuần tuý” cố đô, bạn bè xa gần có thể ít nhiều tâm cảm được, trực nhận được quan niệm triết – mỹ của người Huế. Trong điều kiện một ngày như mọi ngày (9) bình thường, ví cần giới thiệu món duy nhất rất Huế, theo thiển ý của tôi thì không gì hơn canh rau tập tàng.

Sẵn các nguyên vật liệu như tôi đã liệt kê, nếu đem đổ ào tất tần tật cùng lúc vô soong nồi, nêm xoạch đầy đủ gia vị, rồi đun sôi nấu chín, vừa nhanh, vừa khoẻ, mà vẫn múc ăn được tốt chứ lị? Dạ thưa, tốt thì có thể, nhưng chưa đẹp, chưa hay, chưa bay hương lượn vị. Đun nấu kiểu nớ, dân gốc sông Hương núi Ngự chẳng đời mô gọi canh rau tập tàng / thập toàn, mà kêu là canh… hầm bà lằng, là súp… hổ lốn!

Muốn đúng bài bản bếp núc Huế “rin” (10), phải chấp nhận đốt chút đỉnh… thời gian, chịu khó tuần tự xử lý theo quy trình “rình rang” chút đỉnh. Quy trình đó được một cô giáo dạy môn nữ công gia chánh ở trường nữ trung học Đồng Khánh trước kia (11) là Hoàng Thị Kim Cúc, người từng được thi sĩ Hàn Mạc Tử yêu thương (12), ghi lại vắn tắt trong cuốn Món ăn nấu lối Huế (13) như vầy: “Lựa các thứ lá này: lá sân, lá lốt, lá vông, lá mồng tơi, lặt đọt non rửa sạch. Mướp ngọt gọt vỏ, cắt mỏng và đọt măng non xắt lát mỏng (đọt măng luộc trước cho khỏi đắng). Tôm lột vỏ tao với ớt, hành, tiêu, nước mắm, muối và vài muỗng nước cho vừa, bỏ măng xào trước, đoạn thêm một muỗng nước ruốc, để sôi vài lần thấm, thêm nước cho nhiều, nấu sôi bỏ các thứ rau vào, bao giờ rau chín sẽ cho mướp ngọt vào trộn đều, nhắc xuống liền.” Còn là một cư sĩ Phật giáo và là Phó Ban hướng dẫn trung ương Gia đình Phật tử Việt Nam nên Hoàng Thị Kim Cúc biên soạn cuốn Nấu 120 món chay (14) hướng dẫn phương pháp chế biến canh rau tập tàng trai tịnh. Tương tự cách nấu món mặn, canh chay chỉ hoán đổi những thứ có nguồn gốc động vật bằng thực vật: thay tôm với thịt bằng nấm rơm và đậu khuôn / đậu phụ / tàu hũ, thay ruốc với nước mắm bằng chao và xì dầu / vị tâm / tàu vị yểu / nước tương, v.v. Dù mặn hay chay, nấu một món ngỡ chừng đơn giản như canh rau tập tàng vẫn đòi hỏi người nội trợ toàn tâm toàn ý thể hiện sự tinh tế, tỉ mỉ. Công phu dành cho việc nấu canh rau tập tàng được đầu tư hợp lý. Tuy gọi canh, nhưng như chúng ta thấy, món này còn tích hợp cả luộc lẫn tao / xào, chiên / rán, nhằm khai thác tối đa khả năng “anh hoa phát tiết” của từng loại nguyên vật liệu mà vẫn phối hợp hài hoà với nhau, bổ sung lẫn nhau, thống nhất tạo nên một “tập đại thành viên mãn”.

Đủ để khẳng định canh rau tập tàng chính là món ăn thường nhật cực kỳ đặc trưng cho “văn hoá bricolage” (15) là “kiểu chọn lựa Huéen tiêu biểu ở chỗ: đế vương hoá một món ăn trên cơ sở chất liệu rất dân dã” như nhà nghiên cứu Phan Ngọc đã diễn đạt trong sách Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới (16).

Cần thêm rằng canh rau tập tàng xứ Huế, cùng loạt món ăn thức uống cổ truyền của cộng đồng 54 dân tộc Việt Nam, tạo thành kho tàng di sản văn hoá vô giá mà bao thế hệ tiền nhân dày công sáng tạo, cải biến, truyền lưu. Qua đó, lớp lớp hậu bối nhận ra đôi vài dấu ấn, thậm chí có thể phục hiện phần nào diện mạo nhiều giai đoạn quá khứ. Phân loại theo Gustave Juiovannoni – chuyên gia trùng tu di tích người Ý – thì phần lớn các công trình kiến trúc cổ là “di tích chết”, còn nhiều môn nghệ thuật truyền thống, trong đó chắc chắn có nghệ thuật ẩm thực, lại là “di tích sống”. Mà “sống” tất cần giao lưu, hội nhập, tiếp biến, cải tiến, nâng cao, đào sâu nhằm thích ứng và phát huy giá trị với hiện tại, với tương lai – miễn sao đừng đánh mất bản chất, bản sắc. Ngày nay, món canh rau tập tàng truyền thống vẫn tiếp tục được bà con chốn Thần Kinh trân trọng kế thừa và không ngừng cách tân, phát triển. Để ngon hơn, đẹp hơn, bổ dưỡng hơn, phong phú hơn, và Huế hơn. Mai sau, húp miếng canh rau tập tàng, hậu thế sẽ vô vàn thú vị khi “bóc tách” được thêm lớp lớp thông tin mang dấu ấn thế kỷ XX và XXI đầy sôi động.

Theo đà tăng trưởng giao thông lẫn giao thương, phụ nữ miền Hương Ngự bây giờ “thi triển” món canh rau tập tàng dễ dàng, thuận lợi, hấp dẫn hơn xưa nhiều. Bước vào chợ, phóng tới siêu thị, hoặc chờ gánh hàng rong, quý bà quý cô tha hồ chọn lựa tôm, thịt, măng tươi, mướp ngọt, cùng hơn chục loại rau và các loại gia vị cần thiết. Tiểu thương chuyên doanh rau xanh ở các chợ Đông Ba, An Cựu, Tây Lộc, Tây Linh, Kim Long, Phường Đúc, Vỹ Dạ, Bến Ngự, An Hoà, Bao Vinh, Long Thọ, Trường An, Cầu Đất, Dinh, Cồn, Cống, Xép, v.v., lâu nay bán mớ rau tập tàng “trọn bộ” gồm nhiều loại rau trồng trộn chung rau dại. Nếu thấy cần bổ sung, người ta lùng mua thêm, hoặc bước ra sân vườn vặt thêm mớ lá, chùm hoa, quả ớt, hạt tiêu, v.v. Chất lượng thực phẩm được tăng cường rõ rệt nhờ bàn tay nội trợ đảm đang khéo léo gia giảm nguyên vật liệu theo nguyên tắc nhất quán: mỗi thứ một ít. Món canh rau tập tàng hiện thời được dọn trong “đọi” sành hay tô sứ, nom ngoạn mục và kích thích con tì con vị lắm thay.

Không chỉ nấm rơm và nấm mèo, canh rau tập tàng hiện còn được nhiều giống nấm khác – từ trồng đến mọc hoang – sẵn sàng nhập cuộc, như nấm mỡ, nấm mỡ gà, nấm vị cua, nấm đông cô, nấm linh chi, nấm tràm, nấm mối. Không chỉ thịt heo hoặc bò cùng măng tươi, mướp ngọt, đậu khuôn, canh rau tập tàng hiện còn dung nạp cá phác lác / thác lác, hến, tóp mỡ, phù chúc, hoa kim châm tươi hoặc khô.

Dùng suông hay chan cơm, khẽ và một miếng… một miếng… thêm miếng nữa, cam đoan quý bạn đồng ý với tôi rằng canh rau tập tàng quá ư đáo nhãn – đáo nhĩ – đáo khẩu, quá ư ngọt ngào tình Huế và đậm đà nghĩa Huế.

Một món ngỡ giản dị song rất Huế

Chạng vạng. Vườn nhà tôi vương vương giai khúc Tiếng xưa của nhạc sĩ tài hoa Dương Thiệu Tước (1915 – 1995). Cô em dọn cơm. Nhóm bạn tỏ vẻ lơ là các món khác, chỉ chăm chăm “khai thác triệt để” canh rau tập tàng bằng tất cả giác quan. Cuối bữa, chạm ly “Minh Mạng thang ngự tửu”, toàn nhóm hào hứng đồng thanh:

– Hoan hô canh tập tàng rất Huế, nhất Huế!

Một tay khảnh ăn có cỡ, vỗ vỗ vai tôi:

– Bản thân canh rau tập tàng ngon quá xá. Lại hân hạnh được nghe anh “giải mã” khối vấn đề liên ngành và xuyên ngành hết sức lý thú liên quan canh rau tập tàng, càng phải thừa nhận: đây là món “đại biểu số 1” xứng danh… thập toàn.

Cậu em tôi vụt thắc mắc:

– Nì, sách báo lâu ni đã đề cập món canh rau tập tàng chưa hè?

Bấy nay, theo tôi biết, về mảng văn hoá nghệ thuật ẩm thực Huế nói riêng, Việt Nam nói chung, đã xuất hiện không ít cuốn sách và bài báo thiên về mô tả hoặc luận bình trên góc độ văn chương – văn hoá – du lịch, hầu hết chưa hoặc mới điểm sơ món canh tập tàng. Ấn phẩm truyền thụ kỹ thuật bếp núc được bày bán nhan nhản thì khá nhiều quyển trình bày công thức cùng quy trình chế biến món đẹp và ngon “rất Huế” ấy. Ngoài hai thư tịch do Hoàng Thị Kim Cúc mà tôi vừa trưng dẫn, thời gian gần đây còn thấy mấy đầu sách sau có lược thuật cách nấu canh rau tập tàng: Cẩm nang gia chánh của Ngọc Ngà (17), Món chay đãi khách của Song Phương (18), Hương vị xứ Huế của Hoàng Thị Như Huy (19), Các món ăn chay của Nguyễn Thu Hà và Huỳnh Thị Dung (20), 256 món ăn dễ nấu của Võ Thị Hoà (21), v.v. Vẫn đang vắng bóng công trình chuyên khảo canh rau tập tàng. Tuy nhiên, cách nay không lâu, chớm xuất hiện tín hiệu vui đáng chú ý về canh rau tập tàng tít tận… bên kia đại dương.

Số là vào năm 1997, GS. TS. Võ Quang Yến – công tác tại Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (22) – về thăm quê mẹ. Được dùng lại món canh độc đáo ở cố hương, Võ Quang Yến bồi hồi nhận xét:

– Mát dịu, giải nhiệt lúc hè nóng, lại là một môn thuốc bổ dưỡng, tăng cường sức khoẻ, phòng chống bệnh tật. Một món ăn ngon lành và bổ ích như rứa thì không thể để các nhà khảo cứu dửng dưng.

Quay sang Pháp, Võ Quang Yến lao vào thư viện, sục sạo kiếm tìm được 159 đơn vị thư tịch tham khảo bằng Việt, Pháp và Anh ngữ, từ đó viết bài tổng hợp tư liệu mang nhan đề Canh rau thập toàn rồi gửi về Việt Nam, công bố trên tạp chí Thông Tin Khoa học Và Công Nghệ 2 (Huế, 7-1998) (23). Phạm vi bài nọ “lắm khi chỉ xin giới hạn trong lĩnh vực tác dụng mà phải bỏ qua thành phần cấu tạo các hoạt chất” và chỉ khoanh tròn 10 loài rau mà theo các chuyên gia phân loại thực vật thì khác biệt hẳn nhau về họ:

  1. Cải cúc / tần ô mang tên khoa học Chrysanthemum coronarium L. thuộc họ Cúc (Compositae).
  2. Dâu tằm Morus alba L. / M. australis Poir. / M. acidosa Griff thuộc họ Dâu tằm (Moracea)
  3. Khoai lang Ipomoea batatas (L.) Poir. thuộc họ Bìm bìm (Convulaceae).
  4. Lá lốt Piper sarmentosum longum thuộc họ Hồ tiêu (Piperaceae).
  5. Mồng tơi Basella rubra L. thuộc họ Mồng tơi (Basellaceae).
  6. Rau má Centella asiatica L. / Hydrocotyle asiatica (L.) Urb. thuộc họ Hoa tán (Umbelliferrae / Apiceae).
  7. Rau ngót / chùm ngọt Sauropus androgynus (L.) Merr. / Phyllanthus elegans Wall. thuộc họ Thầu dầu (Euphorbiaceae) .
  8. Rau sam Portulaca oleraceae L. thuộc họ Rau sam (Portulaceae).
  9. Cây sưng / sâng / sân Zanthoxylum nitidum Roxb. thuộc họ Cam quýt (Rutaceae).
  10. Vông nem Erythrina orientalis (L.) Merr. thuộc họ Đậu (Fabaceae), lại được định danh khác là Erythrina indica Lam. thuộc họ Cánh bướm (Papilionaceae).

Võ Quang Yến viết: “Nói chung, tất cả các loại rau dùng trong món canh thập toàn là những môn thuốc riêng biệt. Chưa có một cuộc khảo cứu nào được thực hiện lên toàn hỗn hợp nên chưa biết được tính chất dược liệu của toàn món canh, nhất là hiệu ứng đồng vận giữa các thuốc. Dù sao Đông y đã có một khái niệm khá rõ ràng về phẩm lượng của nó, ta có thể yên tâm thưởng thức món canh ngon mát và bổ ích này.”

Thực tế, canh rau tập tàng xứ Huế bao gồm tôm, thịt heo hoặc bò, cá, hến, nấm, măng tươi, mướp ngọt, đậu khuôn, cùng trên dưới chục thứ rau cỏ chứ không nhất thiết đủ 10 loài rau kia. Tách rời từng loại rau mà chế biến riêng, dĩ nhiên được vô số món có sắc thái khác nhau. Nhưng nấu gộp “đại đoàn kết” thành canh rau tập tàng, tất cả thực khách ắt thích thú phát hiện một phức hệ hương vị thật khác lạ và quá tuyệt vời.

Về phương diện thực vật học, hoá học, tác dụng dược lý của từng loài rau trong bát canh tập tàng, những ai muốn tìm hiểu cặn kẽ đều dễ dàng tra cứu thư tịch tiếng Việt đã xuất bản rộng rãi, chẳng hạn các bộ sách Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam của Đỗ Tất Lợi (24), Cây thuốc Việt Nam của Viện Dược liệu (25), Từ điển cây thuốc Việt Nam của Võ Văn Chi (26), Cây cỏ Việt Nam của Phạm Hoàng Hộ (27), v.v. Vấn đề đặt ra: sự phối hợp toàn bộ nguyên vật liệu tạo nên canh rau tập tàng đem lại tác dụng thế nào đối với sức khoẻ con người? Kỳ thực, đây là câu hỏi cực kỳ khó giải đáp, bởi xét thực tiễn sử dụng, thành phần động-thực-khoáng vật trong từng soong canh tập tàng luôn gia giảm thiên biến vạn hoá tuỳ thời vụ, tuỳ địa bàn, tuỳ hoàn cảnh từng gia đình, tuỳ cơ địa từng cá nhân nữa.

Võ Quang Yến nêu bật đặc điểm: “Ở Huế có món canh rau thập toàn; các vùng khác ít nghe nói đến.”

Chính xác thì bây giờ, không chỉ ở Huế, mà bất kỳ nơi chốn nào có người gốc Huế hay từng gắn bó với Huế sinh sống, nơi ấy đều xuất hiện canh rau tập tàng.

Ngược xuôi Bắc – Trung – Nam, tôi đã dùng canh rau tập tàng tại Việt Trì, Vĩnh Yên, Lạng Sơn, Hạ Long, Hải Phòng, Bắc Ninh, Hà Nội, Hưng Yên, Nam Định, Ninh Bình, Vinh, Đồng Hới, Đông Hà, Đà Nẵng, Hội An, Tam Kỳ, Quy Nhơn, Kon Tum, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt, Bảo Lộc, Phan Rang, Phan Thiết, Vũng Tàu, Long Khánh, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Sài Gòn, Tân An, Mỹ Tho, Bến Tre, Vĩnh Long, Cần Thơ, Cao Lãnh, Long Xuyên, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên, Phú Quốc, v.v. Tính đến nay, món canh rau tập tàng vẫn phổ biến nhất ở Huế.

Ôi! Có món ăn thường nhật nào tuy giản dị, dễ chế biến, mà đẹp-thơm-ngon, thể hiện trọn vẹn mối dung hoà giữa con người và thiên nhiên, giữa thuần hoá và hoang dã, giữa cung đình và bình dân, giữa quá khứ và hiện tại như canh rau tập tàng nhỉ? Tôi thiển nghĩ: canh rau tập tàng hoàn toàn xứng đáng là một trong những “đại biểu ưu tú” của nền nghệ thuật ẩm thực truyền thống lẫy lừng của Huế, của Việt Nam. ♥

____________

(9) Nhan đề một ca khúc của Trịnh Công Sơn (1939 – 2001).

(10) Phiên âm và tĩnh lược từ tiếng Pháp origine có nghĩa nguồn gốc, gốc.

(11) Nay là trường THPT Hai Bà Trưng.

(12) Mới quý bạn đọc tham khảo bài Sự thật về mối tình Hàn Mạc Tử – Hoàng Thị Kim Cúc và áng thơ “Ở đây thôn Vỹ Dạ” của Phanxipăng từng đăng tạp chí Nghiên Cứu Và Phát Triển 81 (7-2010).

(13) Nhà sách Khai Trí ấn hành, Sài Gòn, 1970; NXB Đà Nẵng tái bản năm 1999 với nhan đề Nghệ thuật nấu món ăn Huế – 300 món mặn.

(14) NXB TP.HCM, 1995.

(15) Bricolage, tiếng Pháp, mang nghĩa hí hoáy lắp ghép, pha trộn, chỉnh sửa.

(16) NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 1994.

(17) NXB Đà Nẵng, 1998.

(18) NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1999.

(19) NXB Phụ Nữ, Hà Nội, 2000.

(20) NXB Văn Hoá Thông Tin, Hà Nội, 2001.

(21) NXB Phụ Nữ, Hà Nội, 2001.

(22) Centre National de la Recherche Scientifique (CNRS).

(23) Tạp chí Thông Tin Khoa Học Và Công Nghệ là tiển thân của tạp chí Nghiên Cứu Và Phát Triển. Bài Canh rau thập toàn sau đó được đưa vào sách Cây nhà lá vườn (NXB Đà Nẵng, 2008, trang 114 – 130).

(24) NXB Khoa Học Kỹ Thuật, Hà Nội, 1977 – từ đó tái bản nhiều lần.

(25) NXB Khoa Học Kỹ Thuật, Hà Nội, 1990.

(26) NXB Y Học, Hà Nội, 1999.

(27) Từ bộ sách Cây cỏ miền Nam Việt Nam (Trung tâm Học liệu Bộ Quốc gia Giáo dục, Sài Gòn, 1969, 1970, 1972), Phạm Hoàng Hộ đã bổ sung thành Cây cỏ Việt Nam (Mekong printing, Santa Ana, California, 1991, 1992, 1993 – NXB Trẻ tái bản, 1999).

Đã đăng tạp chí Kiến Thức Ngày Nay 478 (20-11-2003) & 479 (1-12-2003)