- Học vị Phó bảng xuất hiện thời gian nào?
- Việt Nam có bao nhiêu Phó bảng?
- Giai thoại lý thú liên quan Phó bảng.
- Một số Phó bảng lừng danh.
Vài nét về khoa cử Việt Nam xưa
Cuộc thi đầu tiên của nước ta do triều đình tổ chức là khoa Tam trường được vua Lý Nhân Tông mở năm Ất Mão 1075, chọn 6 người mà thủ khoa là Lê Văn Thịnh. Vua Trần Thái Tông cho tổ chức khoa thi Thái học sinh vào năm Nhâm Thìn 1232, sau đó cứ 7 năm thi 1 lần, đến năm Giáp Dần 1374, vua Trần Duệ Tông đổi tên thành khoa thi Tiến sĩ. Vua Lê Thái Tông (1433 – 1442) đặt lệ 5 năm mở 1 kỳ thi Hương, 6 năm mở 1 kỳ thi Hội. Đến đời vua Lê Thánh Tông (1460 – 1497), thi cử được định lệ theo nhà Minh: cứ 3 năm mở 1 khoa; thi Hương vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu; thi Hội vào các năm Thìn, Tuất, Sửu, Mùi.
Sau khi thống nhất giang sơn, vua Gia Long cho mở khoa thi Hương vào năm Đinh Mão 1807. Khoa thi Hội đến năm Nhâm Ngọ 1822 mới được tổ chức lúc vua Minh Mạng trị vì. Khi khoa cử khá hoàn bị, triều Nguyễn mở nhiều kỳ thi, được chia làm 2 loại:
* Thường khoa là khoa thi Tiến sĩ, gồm 3 kỳ thi: Hương, Hội, Đình. Thi Hương ở các trường Hà Nội, Nam Định, Thanh Hoá, Nghệ An, Thừa Thiên, Bình Định, Gia Định, An Giang, chọn Cử nhân để thi Hội. Thi Hội và thi Đình (còn gọi Điện thí / Phúc thí) ở kinh đô Huế.
* Chế khoa được tổ chức từ thời vua Tự Đức, có Hoành tài, Nhã sĩ, Cát sĩ.
Phó bảng là Ất tiến sĩ
Xem xét lịch sử khoa cử Việt Nam, thấy ngay rằng đến triều Nguyễn xuất hiện nét mới đáng lưu ý: khoa thi Hội từ năm Kỷ Sửu 1829, niên hiệu Minh Mạng thứ X, ngoài việc chọn các Tiến sĩ 進士, còn lựa thêm các Phó bảng 副榜. Danh sách thí sinh đạt danh hiệu Tiến sĩ được yết ở chánh bảng. Danh sách thí sinh kém hơn nhưng vẫn đỗ được yết ở bảng phụ thì gọi là Phó bảng.
Sách Khoa cử & các nhà khoa bảng triều Nguyễn của nhiều soạn giả (NXB Thuận Hoá, Huế, 2000) ghi nhận: “Những thí sinh đỗ kỳ thi Hội (gọi là Trúng cách hoặc Chánh trúng cách) sẽ được vào thi Đình. Sau khi yết bảng thi Hội, các quan Chủ khảo và Tri cống cử căn cứ theo điểm các thí sinh ở các trường thi, lập bảng Giáp và bảng Ất, mỗi thứ hai bảng. Bảng Giáp ghi danh những người đỗ chính thức, bảng Ất ghi danh những người lấy đỗ Phó bảng. Những người có tên trong bảng Giáp sẽ được dự kỳ thi Đình. Đến đời Tự Đức, có khoa thi vì số người đỗ ở bảng chính quá ít, nên vua rộng lượng xét cho những người đỗ Phó bảng cũng được vào thi Đình, như năm Tự Đức thứ XXX Đinh Sửu (1877), năm Tự Đức thứ XXXIII Canh Thìn (1880).”
Trong bài 90 năm học vị Phó bảng đăng trên tạp chí Huế xưa & nay số 2 (2-1993), Lê Quang Thái viết: “Thông thường, Phó bảng được gọi là Ất khoa tiến sĩ để phân biệt với Tiến sĩ là Giáp khoa tiến sĩ. Người ta còn gọi tắt Phó bảng là Ất tiến sĩ.”
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia cũng ghi rằng Phó bảng là Ất tiến sĩ 乙進士.
5 vị Phó bảng đầu tiên
Khoa thi Hội năm Kỷ Sửu 1829, niên hiệu Tự Đức X, do Thượng thư Bộ Hình là Hoàng Kim Xán làm Chánh chủ khảo. Sách Khoa cử & các nhà khoa bảng triều Nguyễn (sđd) cho hay: “Khoa này bắt đầu dùng điểm số để chấm các bài thi và cũng bắt đầu chọn Phó bảng. Thứ tự xếp hạng căn cứ vào điểm số như sau: Hạng Ưu: 9 đến 10 điểm; hạng Ưu thứ: 7 đến 8 điểm; hạng Bình: 5 đến 6 điểm; hạng Bình thứ: 3 đến 4 điểm; hạng Thứ: 1 đến 2 điểm; hạng Liệt là không đủ 1 điểm (bất cập phân). Thí sinh nào qua được 3 kỳ mà đạt điểm tổng cộng từ 10 trở lên, xếp vào hạng Chánh bảng; nếu đạt được 3 kỳ mà điểm tổng cộng từ 4 đến 9 hoặc chỉ đạt được 2 kỳ mà cộng điểm 10 trở lên, xếp vào hạng Phó bảng.”
Khoa ấy chọn được 5 vị Phó bảng đầu tiên của nước nhà:
1. Phạm Văn Hợp: sinh năm Ất Mão 1795, người xã Minh Tảo, huyện Từ Liêm, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc TP. Hà Nội.
2. Dương Đăng Dụng: sinh năm Giáp Tý 1804, người xã Ỷ La, huyện Từ Liêm, tỉnh Sơn Tây, nay thuộc TP. Hà Nội.
3. Phan Văn Nhã: sinh năm Bính Dần 1806, người xã Yên Đông, huyện La Sơn, tỉnh Nghệ An, nay là huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh. Phan Văn Nhã là bác của Tiến sĩ Phan Đình Phùng (1847 – 1895).
4. Nguyễn Thường: sinh năm Giáp Tý 1804, người xã Minh Lương (sau đổi thành Trung Lương), huyện Thiên Lộc, tỉnh Nghệ An, nay là huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
5. Trần Ngọc Dao: sinh năm Kỷ Mùi 1799, người xã Mậu Tài, huyện Phú Vang, phủ Thừa Thiên, nay là xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên – Huế. Trần Ngọc Dao là người Thừa Thiên đầu tiên đỗ đại khoa, từng đảm trách Tuần vũ Định Tường, Phó Đô Ngự sử, Tham tri Bộ Binh, tạ thế năm Ất Tị 1845, niên hiệu Thiệu Trị V, được an táng tại Hội An, Quảng Nam.
(Còn nữa)
Bình luận về bài viết này