Phó bảng có gì lạ?
Tập 3 Từ điển bách khoa Việt Nam (NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2003) đề cập Phó bảng: “học vị các kỳ thi Hội trong chế độ khoa cử đời Nguyễn. Theo thang bậc, thấp hơn học vị Tiến sĩ, có thể coi là những Tiến sĩ bảng phụ. Trong một khoa thi Hội, có thể vừa có học vị Tiến sĩ, vừa có học vị Phó bảng. Cũng có khi chỉ lấy đỗ Phó bảng, mà không lấy đỗ Tiến sĩ.”
Từ điển bách khoa trình bày vậy quá sai lệch. Thực tế, chẳng khoa thi Hội nào chỉ lấy đỗ Phó bảng mà không lấy đỗ Tiến sĩ cả.
Tuy được gọi Ất tiến sĩ, song giữa Phó bảng với Giáp tiến sĩ / Tiến sĩ tồn tại sự cách biệt khá xa. Chánh bảng, danh sách tân Tiến sĩ được viết trên giấy đỏ, được đặt trên án đỏ, che lọng đỏ, do đó mới hình thành từ vựng Châu bảng. Châu / chu / 朱 mang nghĩa sắc đỏ. Châu bảng được quan quân trịnh trọng đưa vào Hoàng thành trình vua, sau đó đem ra Phu Văn Lâu treo 3 ngày. Danh sách tân Phó bảng chỉ treo 1 ngày mà chẳng có nghi thức gì. Các Phó bảng không được dự lễ Truyền lô, không được vua ban yến, không được thưởng hoa ở Ngự uyển rồi cưỡi ngựa dạo quanh Kinh thành, không cờ quạt ân tứ vinh quy, và không được khắc tên vào bia đá dựng tại Văn Thánh / Văn Miếu.
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia còn ghi: “Phó bảng không được dự thi Đình để xếp loại Tiến sĩ. Từ năm 1851 vua Tự Đức có cho thêm một số Phó bảng có điểm số thi Hội gần với điểm chuẩn đỗ chánh bảng được tham dự thi Đình để có thêm cơ hội phấn đấu. Nếu đạt điểm chuẩn đỗ Tiến sĩ thì được công nhận là Tiến sĩ, nếu không đạt vẫn được công nhận là Phó bảng.”
Bùi Ân Niên – trường hợp hy hữu
Bùi Văn Dị / Tự được vua Tự Đức ban tên Bùi Ân Niên, chào đời năm Nhâm Thìn 1832 tại xã Châu Cầu, tổng Phù Đạm, huyện Kim Bảng, phủ Lý Nhân, tỉnh Hà Nội, nay là TP. Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Năm Canh Tuất 1850 và Nhâm Tý 1852, mới 18 và 20 tuổi, thi đỗ Tú tài. Năm Ất Mão 1855, 23 tuổi, thi đỗ Cử nhân. Năm Ất Sửu 1865, niên hiệu Tự Đức XVIIII, thi Hội, đỗ thứ 4 hạng Trúng cách, nhưng vào thi Đình bị hỏng, đành nhận học vị Phó bảng.
Sau đó, Bùi Ân Niên lần lượt đảm chức Tri huyện Lang Tài, rồi Việt Yên, rồi Yên Dũng ở tỉnh Bắc Ninh, Án sát tỉnh Ninh Bình, về Huế công tác ở Nội Các, làm quan duyệt quyển các khoa thi Hội. Năm Bính Tý 1876, được thăng Thị lang Bộ Lễ, làm Chánh sứ sang triều đình nhà Thanh. Mậu Dần 1878, Quyền Tham tri Bộ Lại. Tân Tị 1881, làm Đại thần quản lý Nha Thương Bạc. Năm sau, giữ chức Khâm sai Phó Kinh lược sứ Bắc kỳ. Giáp Thân 1884, vào Kinh, đảm trách Tả Tham tri Bộ Lại, lại được làm “Nhật Giảng quan” để giảng sách cho vua Kiến Phúc. Lúc chủ quyền quốc gia lọt vào tay Pháp, ông ghé Thanh Hoá ẩn dật với hiệu Hải Nông. Nhưng cuối năm Đinh Sửu 1877, vua Đồng Khánh triệu ông về Kinh, cho giữ chức Tham tri Bộ Binh kiêm Thương tá Viện Cơ Mật, đồng thời làm Giảng quan. Năm sau, làm Quyền Thượng thư Bộ Lễ kiêm Phó Tổng tài Quốc Sử Quán, phụ trách biên soạn phần Đệ tứ kỷ trong bộ sách Đại Nam thực lục. Vua Thành Thái lên ngôi, ông càng được trọng dụng: vừa làm Giảng quan, vừa làm Phụ đạo Đại thần. Năm Canh Dần 1890, vua Thành Thái hỏi:
– Khanh làm quan trải 3 triều, lại hưởng tuổi thọ, nay còn gì ao ước không?
Bấy giờ, Bùi Ân Niên đã 59 tuổi, tâu:
– Thần nhờ ơn nước như thế này là thịnh lắm rồi, còn dám mong mỏi gì hơn nữa. Duy có một việc, thần vẫn thắc mắc trong dạ từ trước đến nay là khoa thi năm Ất Sửu, thần đã Chánh trúng cách mà lại đỗ xuống Phó bảng, không hiểu tại duyên cớ nào.
Vâng mệnh bà Từ Dũ, vua Thành Thái gia ân đặc cách, ban cho Bùi Ân Niên học vị Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân. Bia đá chỉ khắc độc nhất họ tên 1 Tiến sĩ là di vật vô tiền khoáng hậu lâu nay được bảo lưu tại Văn Thánh / Văn Miếu ở Huế.
Năm Ất Tị 1905, Bùi Ân Niên mất. Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến (1835 – 1909) điếu bạn thân bằng đôi câu đối:
Ngư ky cựu phố, hoa sơ lạc,
Long bảng tân bi, thạch vị đài.
Trong sách Giai thoại làng nho (Nam Chi Tùng Thư xuất bản, Sài Gòn, 1966), Lãng Nhân dịch:
Bến cá bàn xưa, hoa đã rụng,
Bảng rồng bia mới, đá chưa rêu.
Mấy chữ thạch vị đài / đá chưa rêu sao mà thâm trầm và hóm hỉnh, không chỉ buồn cười về bước công hầu của một sĩ phu, mà cả quan niệm quý khoa (thi đỗ) hơn quý hoạn (làm quan) đã hằn sâu vào xã hội tự bao đời!
266 vị Phó bảng
Tính đến kỳ thi Hội cuối cùng vào năm Kỷ Mùi 1919, niên hiệu Khải Định thứ IV, trải 90 năm tuyển chọn đại khoa, đất nước ta đã có 266 vị Phó bảng.
Đây là 3 Phó bảng lừng danh:
* Nguyễn Văn Siêu (1795 – 1872): nguyên quán làng Kim Lũ, nay thuộc xã Đại Kim, huyện Thanh Trì, TP. Hà Nội. Đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất 1838, niên hiệu Minh Mạng XIX. Làm Phó sứ sang Thanh năm Kỷ Dậu 1849, đoạn giữ chức Án sát Hà Tĩnh rồi Hưng Yên. Là người thiết kế quần thể đài Nghiên, tháp Bút, cầu Thê Húc, tu sửa đền Ngọc Sơn ở hồ Gươm. Lưu lại các tác phẩm Phương Đình dư địa chí, Phương Đình tuỳ bút lục, Phương Đình vạn lý tập. Về tài năng văn chương, Nguyễn Văn Siêu cùng Cao Bá Quát được người cùng thời tôn sùng “thần Siêu, thánh Quát”.
* Hoàng Kim Tích tức Hoàng Diệu (1829 – 1882): người xã Xuân Đài, huyện Diên Phước, tỉnh Quảng Nam, nay là huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Đỗ Phó bảng khoa Quý Sửu 1853, niên hiệu Tự Đức VI. Làm Tri huyện Tuy Phước rồi Tri phủ Tuy Viễn ở Bình Định, Tri huyện Hương Trà ở Thừa Thiên, Tri phủ Đa Phúc ở Phúc Yên rồi Lạng Giang ở Bắc Giang, Án sát Nam Định, Bố chánh Bắc Ninh, Tham tri Bộ Hình rồi Bộ Lại. Năm 1880, làm Tổng đốc Hà Ninh (Hà Nội & Ninh Bình). Ngày 25-4-1882, giặc Pháp tấn công, thành Hà Nội thất thủ, Hoàng Diệu tuẫn tiết ở Võ Miếu.
* Phan Châu Trinh (1872 – 1926): người xã Tây Lộc, huyện Hà Đông, tỉnh Quảng Nam, nay là xã Tiên Kỳ, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng Nam. Đỗ Phó bảng khoa Tân Sửu 1901, năm sau học trường Hậu Bổ, ra làm Thừa biện Bộ Lễ ít lâu thì từ quan, ngược xuôi Nam Bắc, kết giao với nhiều sĩ phu yêu nước – trong đó có Huỳnh Thúc Kháng và Phan Bội Châu. Ất Tị 1905, sang Nhật Bản rồi sang Pháp. Đinh Mùi 1907, giảng dạy Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội. Mậu Thân 1908, bị Pháp bắt đày ra Côn Đảo. Canh Tuất 1910, bị Pháp quản thúc tại Mỹ Tho. Tân Hợi 1911, cùng con trai là Phan Châu Dật sang Pháp. Ất Sửu 1925, hồi hương, tiếp tục kêu gọi dân quyền, dân sinh, dân khí. Phan Châu Trinh mất ngày 24-3-1926 tại Sài Gòn.
Cũng nên kể thêm phương danh các Phó bảng: Nguyễn Bá Nghi, Phạm Thế Húc (em của Tiến sĩ Phạm Thế Hiển), Phan Đình Tuyển (thân phụ của Tiến sĩ Phan Đình Phùng), Trần Doãn Đạt (thân phụ của Tiến sĩ Trần Hy Tăng / Trần Bích San), Phan Đình Vận (con của Phó bảng Phan Đình Tuyển và em của Tiến sĩ Phan Đình Phùng), Đặng Huy Xán (em của Đặng Huy Trứ) (1) , Nguyễn Duy Hiệu, Nguyễn Hoan (con trai của Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến), Cao Xuân Tiếu (con của Cao Xuân Dục và thân phụ của Cao Xuân Huy), Nguyễn Thiện Kế (em của Nguyễn Thiện Thuật), Nguyễn Sinh Huy / Nguyễn Sinh Sắc (thân phụ của Nguyễn Sinh Cung tức chủ tịch Hồ Chí Minh), v.v. ♥
—————–
(1) Quý bà con có thể tham khảo bài Người trồng mầm nhiếp ảnh Việt Nam của Phanxipăng đã đăng Thế Giới Mới 453 (10-9-2001) rồi truyền vào weblog này ngày 29-5-2011 https://phanxipang.wordpress.com/2011/05/29/ng%c6%b0%e1%bb%9di-tr%e1%bb%93ng-m%e1%ba%a7m-nhi%e1%ba%bfp-%e1%ba%a3nh-%e1%bb%9f-vi%e1%bb%87t-nam/
● Phanxipăng
Đã đăng Thế Giới Mới 868 (11-01-2010)
Lâu nay, mọi người thường nghe, đọc, viết “Phó bảng” nhưng chưa biết học vị đó có nghĩa gì, xuất hiện từ bao giờ. Chân thành cảm ơn bài viết “Phó bảng” của Phanxipăng cung cấp hệ thống kiến thức bổ ích và thú vị.
Bài “Phó bảng” được Phanxipăng thực hiện công phu, chu đáo, trình bày vừa chặt chẽ vừa hấp dẫn, cung cấp nhiều thông tin hữu ích cho đông đảo bạn đọc.
Bài khảo cứu của Phanxipăng rất giá trị, nhất là thông tin về Phó bảng Trần Ngọc Dao – người Thừa Thiên đầu tiên đỗ đại khoa.
Bài viết về “Phó bảng” rất hay, rất chi tiết, rất mạch lạc và cung cấp nhiều kiến thức rất bổ ích cho bạn đọc, đặc biệt là năm người đỗ Phó bảng đầu tiên của nước ta, trong đó có Cụ Tham tri Bộ Binh Trần Ngọc Dao.
Tôi rất lấy làm tự hào khi là con cháu của Cụ Tham. Cứ mỗi lần về thăm lăng Cụ, thắp vài nén nhang trầm thơm mà lòng dâng trào cảm xúc, vừa xúc động, lại vừa tự hào và rồi lại nguyện thề với lòng mình phải sống thật xứng đáng để không hổ danh là con cháu của Cụ.
Và hôm nay, nhiều người là hậu duệ của Cụ đã nổi danh khiến tôi rất lấy làm tự hào, kính cẩn, trong số đó có đa nhà: báo, giáo, văn, thơ, họa, nhạc, võ, v.v.- Phanxipăng.